Phân biệt Master B/L và House B/L
Phân biệt House Bill và Master Bill thế nào? Vận đơn MBL là gì? HBL là gì?
Đây là những câu hỏi thường gặp khi người làm xuất nhập khẩu làm việc
liên quan đến Vận đơn đường biển.
Master Bill là gì?
Master Bill of Lading là Vận đơn đường biển cho hãng tàu phát hành, dịch là
Vận đơn chủ, và thường được viết tắt là MBL hay MB/L. Bạn sẽ thấy tên và
logo của hãng tàu trên đầu trang vận đơn. Nếu làm quen thì sẽ nhận biết tên
hãng tàu khá dễ dàng, chẳng hạn như MCC, SITC, Yang Ming, OOCL…
Bạn có thể tìm hiểu tên một số hãng lớn trong danh sách hãng tàu tại Việt Nam.
Mỗi lô hàng chỉ phát hành 1 MBL, gồm nhiều liên (cùng nội dung).
Trên Master Bill, người gửi hàng là Công ty giao nhận vận tải ở
nước xuất khẩu (không phải là công ty xuất khẩu), còn người
nhận hàng là Công ty giao nhận vận tải ở nước nhập khẩu.
Thường 2 công ty giao nhận ở 2 nước có mối quan hệ đại lý, hoặc công ty mẹ con.
Các bên đứng tên trên vận đơn:
Forwarder nước XK => Hãng tàu => Forwarder nước NK
Tất nhiên, vẫn có trường hợp chủ hàng đứng tên trên MBL, tôi sẽ đề cập trong phần cuối bài.
House Bill là gì?
House Bill of Lading là vận đơn đường biển do công ty giao nhận
vận tải (freight forwarder) phát hành, dịch là Vận đơn nhà, thường được
viết tắt là HBL, HB/L, hay House Bill.
Ở nước ngoài, HBL còn có thể do 1 loại công ty vận chuyển có tên là
chủ tàu không tàu – NVOCC (Non Vessel Ocean Common Carrier) phát hành.
Nhưng ở Việt Nam chưa thấy loại hình này. Thế nên HB/L được hiểu là của Forwarder cấp.
Sau khi chủ hàng đóng hàng và giao cho công ty giao nhận, làm xong thủ tục
hải quan xuất khẩu, và nộp một số phí liên quan, công ty giao nhận sẽ phát hành HBL cho khách hàng.
Về mặt nội dung cũng gồm những chi tiết quan trọng, giống như Vận đơn đường biển nói chung.
Trên HB/L, người gửi hàng thường là người xuất khẩu, và người nhận hàng
thường là người nhập khẩu. Trong trường hợp cần thiết, thì có thể thay bằng
người được ủy quyền của những bên đó.
Theo đó, lô hàng sẽ giao như sau:
Nhà xuất khẩu => Công ty giao nhận => Nhà nhập khẩu
Quy trình phối hợp chứng từ giữa MBL & HBL thế nào?
Đầu tiên, chủ hàng thuê công ty giao nhận vận chuyển đóng hàng xuất khẩu.
Công ty giao nhận này thuê lại hãng tàu vận chuyển lô hàng đó.
Như vậy, sau khi hàng lên tàu, hãng tàu sẽ cấp cho forwarder MBL.
Dựa vào đó, Forwarder sẽ cấp HBL cho chủ hàng.
Có thể nói HBL là vận đơn “đối ứng” của MBL, nối trách nhiệm
vận chuyển giữa hãng tàu đến forwarder.
Tại cảng dỡ, forwarder sẽ nộp phí và làm thủ tục lấy Lệnh giao hàng
(D/O – Delivery Order) từ hãng tàu. Sau đó, người nhập khẩu sẽ nộp phí
làm thủ tục lấy D/O từ forwarder kia.
Một vài lưu ý liên quan
- Không phải lô hàng nào cũng có cả 2 loại vận đơn này, nghĩa là không phải lúc nào cũng cần phân biệt House Bill và Master Bill. Có nhiều trường hợp, chủ hàng làm việc thẳng với hãng tàu không qua fowarder, hoặc có nhờ forwarder book chỗ nhưng chủ hàng vẫn yêu cầu được đứng tên trên Bill. Khi đó, hãng tàu vẫn cấp vận đơn MBL trực tiếp cho chủ hàng, và cũng có nghĩa là không xuất hiện HBL.
- Có trường hợp với 1 lô hàng, có 1 MBL nhưng nhiều HBL. Ví dụ điển hình là hàng ghép container (LCL), khi có hãng tàu vận chuyển nguyên container, 1 forwarder gom hàng lẻ (consolidator) HBL cho mỗi lô hàng, và 1 forwarder khác nhận 1 hàng và chỉ cấp 1 HBL cho lô hàng mà mình nhận vận chuyển. Trong trường hợp này, sẽ xuất hiện nhiều B/L (thường gọi là Bill nối), và nhiều D/O (hay được gọi là lệnh nối).
- Một số trường hợp khác, forwarder có nhiều lô hàng của những chủ hàng khác nhau nhưng đi cùng chuyến tàu. Do đó, forwarder cấp nhiều HBL, nhưng chỉ làm 1 MBL với hãng tàu (để tiết kiệm chi phí, thời gian).
Xem thêm:
Cảng Thượng Hải – Hải cảng lớn nhất Trung Quốc
Dịch vụ vận chuyển hàng đi các cảng chính Châu Âu bằng đường biển