CÔNG ƯỚC HAMBURG ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÀNG HẢI

CÔNG ƯỚC HAMBURG ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÀNG HẢI

CÔNG ƯỚC HAMBURG ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÀNG HẢI

Cách mạng khoa học và công nghệ sôi động vào thập niên 70 và 80 của thế kỷ XX. Ngành công nghiệp thương mại hàng hải đã đạt được sự phát triển vượt bậc. Sự nền kinh tế biến động mạnh mẽ và khủng hoảng tài chính, ngành công nghiệp này đối mặt với nhiều thử thách. Các khái niệm và nguyên tắc đã trở nên lạc hậu, trong khi các văn bản pháp luật lại không còn phù hợp để thúc đẩy sự phát triển của ngành.

Để giải quyết vấn đề này, Công ước Brussels 1924 đã trải qua các sửa đổi và bổ sung bằng Nghị định thư Visby 1968 và Nghị định thư SDR 1979. Tuy nhiên, những nỗ lực này vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của ngành. Quy tắc Hague và Hague-Visby đã phơi bày những hạn chế và không phù hợp với sự biến động thực tế của thị trường. Kết quả, Công ước Hamburg đã được thiết lập để đáp ứng những yêu cầu mới mẻ này.

CÔNG ƯỚC HAMBURG ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÀNG HẢI
CÔNG ƯỚC HAMBURG ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÀNG HẢI

Ý NGHĨA CỦA CÔNG ƯỚC HAMBURG

Công ước Hamburg

Nội dung chính của Quy tắc Hamburg tập trung vào quan hệ trách nhiệm giữa chủ tàu/người chuyên chở và chủ hàng/người nhận hàng. Nhằm khắc phục vấn đề cũ, Quy tắc mới thay đổi căn bản trật tự pháp lý hàng hải.

Ý nghĩa

1. Phạm vi áp dụng mở rộng

Cho phép áp dụng cho các hành trình có cảng dỡ hàng thuộc quốc gia tham gia Công ước, khác biệt so với Quy tắc Hague – Visby.

2. Thời hạn trách nhiệm kéo dài

Người chuyên chở chịu trách nhiệm từ khi nhận hàng ở cảng đi đến khi giao hàng tại cảng đến. Điều này mở rộng hơn so với các quy định trước đây.

3. Cơ sở trách nhiệm

Áp dụng nguyên tắc “lỗi hoặc sơ suất suy đoán”, mở rộng trách nhiệm của người chuyên chở và đảo ngược trật tự chứng minh so với Quy tắc Hague và Hague – Visby.

4. Hủy bỏ các trường hợp miễn trách nhiệm

Loại bỏ các trường hợp miễn trách nhiệm được quy định bởi Quy tắc Hague, chỉ cho phép miễn trách nhiệm trong trường hợp hỏa hoạn.

5. Giới hạn trách nhiệm cao hơn

Mức giới hạn trách nhiệm theo Quy tắc này cao hơn so với Nghị định thư SDR 1979, phù hợp hơn với thực tế.

6. Trách nhiệm về chậm giao hàng

Người chuyên chở phải chịu trách nhiệm cả trong trường hợp chậm giao hàng, với giới hạn trách nhiệm cụ thể.

7. Đối với hàng hóa đặc biệt

Đặc biệt xác định trách nhiệm cho hàng hóa trên boong và súc vật sống.

8. Danh tính người chuyên chở

Người ký kết hoặc đại diện ký kết hợp đồng chuyên chở phải chịu trách nhiệm theo Quy tắc Hamburg.

9. Hợp đồng áp dụng

Cho phép áp dụng cho mọi loại chứng từ vận chuyển, không chỉ hạn chế vào Biên lai vận chuyển.

10. Thời hiệu tố tụng

Thời hiệu tố tụng theo Quy tắc Hamburg được nới rộng đến hai năm.

CÔNG ƯỚC HAMBURG ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÀNG HẢI
CÔNG ƯỚC HAMBURG ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÀNG HẢI

ĐẶC TRƯNG CHÍNH CỦA CÔNG ƯỚC HAMBURG

Quy tắc mới về trách nhiệm của người chuyên chở với rủi ro hàng hóa trong quá trình vận chuyển là đặc trưng chính.

Điều 10. Trách nhiệm của người chuyên chở và người chuyên chở thực tế

Khoản 1.

Khi việc chuyên chở hay một phần chuyên chở được giao cho người chuyên chở thực tế đảm nhiệm, dù việc ủy thác đó có phù hợp với quyền tự do trong hợp đồng vận tải đường biển hay không, người chuyên chở vẫn phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ quá trình chuyên chở theo đúng những quy định của Công ước này. Đối với phần chuyên chở do người chuyên chở thực tế tiến hành, người chuyên chở phải chịu trách nhiệm về những hành vi và thiếu sót của người chuyên chở thực tế và của người làm công và đại lý của người chuyên chở thực tế chỉ khi những người này hoạt động trong phạm vi công việc được giao.

Khoản 2.

Tất cả các quy định của Công ước này quy định trách nhiệm của người chuyên chở cũng được áp dụng đối với trách nhiệm của người chuyên chở thực tế trong quãng đường chuyên chở do người này thực hiện. Những quy định của Mục 2 và 3 Điều 7 và của Mục 2 Điều 8 sẽ áp dụng, nếu có việc kiện người làm công hoặc đại lý của người chuyên chở thực tế.

Khoản 3.

Bất kỳ thỏa thuận đặc biệt nào mà theo đó người chuyên chở đảm nhận những nhiệm vụ không được đặt ra trong Công ước, hoặc từ bỏ những quyền được hưởng theo Công ước này, chỉ có hiệu lực đối với người chuyên chở thực tế, nếu được người chuyên chở thực tế đồng ý rõ ràng bằng văn bản. Dù người chuyên chở thực tế có đồng ý như vậy hay không, người chuyên chở vẫn bị ràng buộc bởi những nghĩa vụ hoặc bởi những sự từ bỏ phát sinh từ sự thỏa thuận đặc biệt đó.

Khoản 4.

Trong trường hợp và trong chừng mực mà cả người chuyên chở và người chuyên chở thực tế cùng chịu trách nhiệm, trách nhiệm của họ là liên đới và riêng biệt.

Khoản 5.

Tổng số tiền bồi thường mà người chuyên chở, người chuyên chở thực tế và những người làm công và đại lý của họ phải chịu không được vượt quá những giới hạn trách nhiệm quy định trong Công ước này.

Khoản 6.

Không một quy định nào trong Điều này làm phương hại đến quyền truy đòi có thể có giữa người chuyên chở và người chuyên chở thực tế.

CÔNG ƯỚC HAMBURG ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÀNG HẢI
CÔNG ƯỚC HAMBURG ĐỐI VỚI CÔNG NGHIỆP HÀNG HẢI

Kết luận

Sự ra đời của Công ước Hamburg giúp giải quyết những khó khăn khi áp dụng hai quy tắc trên.

Đọc thêm:

Công ước quốc tế về vận chuyển đường biển bằng container năm 1972

Các cơ quan chính phủ Mỹ tăng cường giám sát chống độc quyền cho ngành vận tải biển

Rate this post